Những nhà thám hiểm đến châu Mỹ trước Columbus

Bởi
Nghiên cứu lịch sử
Cập nhật: 21/06/2023 8:28 pm
Đã đăng: 19/10/2019 9:53 pm

Ngày nay, một số người vẫn tin rằng Christopher Columbus là nhà thám hiểm đầu tiên phát hiện ra “Thế giới mới”. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều tranh luận về việc có các nhà thám hiểm khác từ châu Âu, châu Á và châu Phi từng đặt chân đến bờ Bắc và Nam Mỹ trước năm 1492.

Hình minh họa những nhà thám hiểm Viking © Vlastimil Šesták / Adobe Stock

Tiền xu và cổ vật “dị thường” ở châu Mỹ

Bằng cách sử dụng máy dò kim loại, người Mỹ đã tìm thấy đồng xu La Mã ở bang Maine có niên đại từ thời Hoàng đế Severus Alexander, người đã bị sát hại vào năm 235 sau Công nguyên (SCN). Vào năm 1974, một đồng tiền tương tự đã được tìm thấy không xa vị trí phát hiện đồng xu đầu tiên với cùng niên đại. Những đồng tiền xu từ thế kỷ thứ 4 đã được tìm thấy tại một cồn cát tại bờ biển phía Bắc ở thành phố Beverly, tiểu bang Massachusetts, cách Boston khoảng 41,84 km.

Một đồng xu La Mã có khắc hình Septimius Severus, người trị vì Rome từ năm 193 đến năm 211 SCN được tìm thấy ở thị trấn Grafton thuộc tiểu bang Massachusetts và một đồng xu khác, có niên đại từ năm 80 SCN, được phát hiện gần sông Presumptscot ở thành phố Westbrook của tiểu bang Maine. Hai đồng xu khác nữa, có niên đại từ năm 72 SCN, đã được đào lên bằng máy dò kim loại tại thị trấn Bethel, tiểu bang Vermont.

Đồng xu La Mã © Shutterstock

Ngoài ra, các hiện vật khác được tìm thấy đã đặt ra giả thuyết về việc người Anh-điêng (người da đỏ) đã từng giao dịch với người La Mã. Năm 1976, một thợ lặn người Brazil đã tìm thấy một bình thủy tinh lớn bị che phủ bởi các loài nhuyễn thể biển (động vật thân mềm) gần thành phố Rio de Janeiro, Brazil. Người thợ lặn cuối cùng đã phát hiện ra 14 bình thủy tinh tương tự và cất chúng trong nhà để xe của mình. Những năm qua, Chính phủ Brazil đã quyết định mời một nhà khảo cổ học dưới nước nổi tiếng thế giới để xác định nguồn gốc của những cái bình thủy tinh này.

Nhà khảo cổ học này đã phát hiện ra những cái bình hai quai nói trên (loại bình có hai tay cầm đặc trưng xuất hiện trong thời kỳ Hy Lạp và La Mã) chính là loại hàng hóa bị rơi xuống biển từ một con tàu đi đến Brazil trong thời kỳ đỉnh cao của Đế chế La Mã ở thế kỷ thứ 3 SCN. Chuyên gia khảo cổ cũng đã xác định được vị trí hai xác tàu La Mã bị đắm dưới biển.

Bình hai quai thời La Mã © Shutterstock

Tương tự, các đồng tiền La Mã cũng được phát hiện dạt vào bờ biển phía bắc Venezuela. Niên đại của những đồng tiền kéo dài từ triều đại Caesar Augustus (từ năm 63 trước Công nguyên đến năm 14 SCN) đến chừng năm 350 SCN.

Tàu biển và văn hóa đi biển

Tuy nhiên, câu hỏi lớn hơn đặt ra là: Liệu những con tàu La Mã trong vài thế kỷ đầu sau Công nguyên có thể dùng để đi biển được không? Một số nhà sử học cho là có thể. Những con tàu ấy được đẩy bằng buồm và một hoặc nhiều dải mái chèo. Thêm nữa, chúng phải rất lớn.

Một tàu chở hàng ngũ cốc được mô tả là dài khoảng 128m, một số con tàu khác có thể chở hàng nghìn tấn hàng hóa và có cả tàu chở được 600 hành khách và thủy thủ đoàn. Các nhà sử học cũng cho biết vào thời điểm đó còn có một con tàu khác chở đến 200 thủy thủ và 1300 hành khách. Hãy so sánh chúng với những con tàu của Columbus với kích thước khoảng 15,24m.

Liệu người La Mã có phải là những người duy nhất đã từng đến vùng đất này? Hãy nhìn sang những người Phoenicia.

Nhà sử học La Mã Herodotus cho biết, vào năm 600 trước Công nguyên (TCN), người Phoenicia từ Carthage (nay thuộc Cộng hòa Tunisia – một quốc gia ở Bắc Phi) từng sử dụng những chiếc thuyền ba tầng dài chừng 24,38m để đi thuyền từ Ai Cập vòng quanh lục địa châu Phi. Ba năm sau, những thủy thủ đoàn trở về đã báo cáo rằng khi họ đi vòng quanh lục địa Châu Phi thì mặt trời chiếu sáng ở phía bên phải chứ không phải bên trái.

Lẽ đương nhiên là ở phía nam của đường xích đạo, mặt trời băng qua bầu trời ở phía bắc nên tạo ra hiện tượng này. Một chuyến đi từ Bắc Phi tới vùng New England (Hoa Kỳ) còn ngắn hơn một nửa chặng hành trình vòng quanh châu Phi của họ.

Người Phoenician phát triển nhờ tài giao thương đường biển ©Wiki

Những hình vẽ Graffiti, Thuốc lá và Cocaine

Những hình vẽ Graffiti trên các tảng đá khác nhau ở New England thể hiện những hình khắc trên tường bằng nhiều ngôn ngữ của nhiều nhóm người khác nhau đã từng đến “Thế giới mới”.

Chẳng hạn, một người dân trên bán đảo Iberia dịch nội dung một dòng chữ mang nghĩa: “Hanno chiếm hữu nơi này”. Hanno là một thủy thủ buôn bán từ Carthage, người đã lên thuyền đi tìm những vùng đất mới từ bờ biển phía tây châu Phi vào năm 425 TCN. Sau đó, không còn bất cứ tin tức gì về anh ta nữa.

Nhiều khả năng những nền văn hóa cổ đại này từng có mối liên hệ nào đó với “Thế giới mới”. Ví dụ, xác ướp của Ramses II (khoảng năm 1290-1224 TCN) có dấu vết của thuốc lá trong lớp gói xác ướp, thứ mà thế giới cổ đại không thể biết đến được bởi chúng có nguồn gốc từ châu Mỹ. Tương tự, cocaine cũng đã xuất hiện như thế.

Vì cây coca được trồng độc quyền ở “Thế giới mới”, nên có khả năng những người chịu trách nhiệm cung cấp thuốc lá và coca cho các tòa án và đền thờ hoàng gia Ai Cập từ khoảng năm 1200 TCN trở đi là người Phoenicia và người Carthage. Với khao khát mở rộng thị trường thương mại, khả năng khám phá và kỹ năng hàng hải thành thạo, không một quốc gia nào khác có thể ở cùng vị trí độc tôn như họ.

Những mỏ đồng cổ và các đồng xu của người Carthage

Năm 1787, những công nhân của dự án xây dựng tuyến đường từ Cambridge đến Malden thuộc tiểu bang Massachusetts, Hoa Kỳ đã khai quật được một số lượng lớn tiền xu của người Carthage. Tổng thống John Quincy Adams đã chú ý đến sự việc này. Các mẫu vật còn sót lại của các mảnh đồng và bạc được xác định là tiền đúc vào thế kỷ thứ 3 TCN.

Chúng được khắc các dòng ký tự trang trí Kufic ngắn, một dạng mẫu tự được sử dụng bởi những người Carthage. Các đồng tiền xu khác của người Carthage cũng được tìm thấy ở thành phố Waterbury, bang Connecticut, Hoa Kỳ trong thời gian gần đây. Chúng thuộc về thời kỳ đầu tiên sản xuất những đồng xu của người Carthage và được đúc cho quân đội sử dụng trong cuộc chiến Punic (cuộc chiến tranh giữa La Mã cổ đại và thành Carthage), ngôn ngữ Carthage và hình ảnh một chiếc đầu ngựa được khắc trên các đồng xu này.

Một chiếc bình Punic ©Wiki

Những chiếc bình kiểu Punic, được sử dụng để mang ô liu, chất lỏng và các vật phẩm khác vào thời cổ đại, đã được một ngư dân ở thành phố Newburyport, bang Massachusetts, Hoa Kỳ phát hiện khi kéo lưới đánh cá vào năm 1991, ngoài ra hai chiếc bình khác hoặc cũng có thể nhiều hơn đã được đào thấy ở thành phố Boston cùng trong bang Massachusetts, Hoa Kỳ. Người ta cũng tìm thấy những chiếc bình như vậy tại thị trấn Castine và thị trấn Jonesboro thuộc bang Maine, Hoa Kỳ.

Khoảng 5000 mỏ đồng cổ đã được tìm thấy xung quanh bờ phía bắc của Hồ Thượng (Lake Superior) thuộc hai tiểu bang Wisconsin và Michigan, Hoa Kỳ và trên Đảo Royale nằm ở phía tây bắc Hồ Thượng. Kết quả của việc sử dụng phương pháp xác định niên đạị bằng đồng vị cacbon-14 đã chỉ ra rằng các mỏ này đã hoạt động từ 6.000 đến 1.000 năm TCN, tương ứng với Thời đại đồ đồng ở Châu Âu. Theo đó, thiếc cũng cần được sử dụng vì đồng đỏ cần cả đồng và thiếc – và chúng đã được khai thác ở vùng núi Andes ở Bolivia.

“Cuộc hành trình của chuối” và các bằng chứng khác

Theo các nhà thực vật học, chuối là một loại cây của Châu Á, không có lịch sử di truyền tại Châu Mỹ. Nhưng chuối đã được tìm thấy từ Mexico đến Brazil khi các nhà thám hiểm Tây Ban Nha đến; và sau đó nó còn được tìm thấy trong các ngôi mộ ở Peru có niên đại lên đến 8.000 năm TCN.

Khoai lang Mỹ cũng được tìm thấy trên khắp Thái Bình Dương vào 12.000 năm TCN, cũng như dừa Mỹ, bông Mỹ và nhiều loại thực vật và động vật có nguồn gốc từ Châu Mỹ khác. Chúng đã được nhân rộng bởi những thương nhân giao dịch hàng hóa với nhau trong thời cổ đại.

Lý thuyết Thor

Một số nhà lý luận đề ra quan điểm rằng, chúng ta nên bắt đầu nhìn nhận và đánh giá cao về tổ tiên của chúng ta: các nhà hàng hải vĩ đại của biển khơi – những người đã đi vòng quanh hành tinh này. Thor Heyerdahl đã chứng minh các dòng hải lưu hoạt động như các băng chuyền im lặng, giống như các dải thang cuốn di chuyển trong sân bay.

Do đó, có lẽ không khó để đi qua các vùng biển như đã được chỉ ra, ví dụ, ông Alexander Doba người Ba Lan đã chèo thuyền kayak vượt qua Đại Tây Dương đến 3 lần trong thế kỷ 21.

Vậy ai là những nhà thám hiểm đầu tiên?

Các bằng chứng đã chỉ ra rằng người Phoenicia và người La Mã đã ở Châu Mỹ nhiều thế kỷ trước thời Christopher Columbus. Điều đó có nghĩa là chúng ta đã bỏ qua cả một giai đoạn lịch sử. Chúng ta thậm chí không biết những nền văn minh trước đó có thể thực hiện các thành tựu như vậy.

Bức vẽ ‘Landing of Columbus’ (1847) của John Vanderlyn © Wiki

Điều này còn đặt ra câu hỏi: Vậy trong lịch sử, chúng ta còn bỏ sót những gì nữa? Liệu có những nhà thám hiểm khác nữa không? Có còn những nền văn minh sớm hơn mà chúng ta chưa từng biết đến? Nhưng điều quan trọng là chúng ta đã mở mang đầu óc và nhìn nhận tất cả các bằng chứng dưới một góc nhìn mới.

Bài viết được bạn Ánh Dương dịch theo tài liệu của Tiến sĩ Pat Hanratty tại Ancient-origins.net

Nguồn: Trithucvn.net
Trở lên Trên ▲

Viết trả lời hoặc Bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị. Các ô bắt buộc sẽ được đánh dấu *